Lời bàn

Học làm người là bài học đầu tiên cha giành cho con.

Vẫn còn hy vọng. A.J. Cronin

Vẫn còn hy vọng
Tác Giả: A.J. Cronin
Nguyễn Hiến Lê dịch thuật


Suốt mùa đông năm đó, tôi ở làng Castelmare, một làng bị tàn phá gần như hoàn toàn ở gần Livourne (Ý) và sáng nào tôi cũng gặp cụ bà Maria Bendetti. Nhỏ con, mảnh khảnh, nhăn nheo, cụ đi chân không, bận một chiếc áo đen đã bạc, màu đen đã ngã qua màu hung hung đỏ, đầu quấn một chiếc khăn quàng đen, lụm khụm, vai mang nặng một cái gùi nan.

Mặt cụ tóp lại, sạm đen, tiều tụy, ưu tư, mang nét đau khổ, rầu rĩ, thất vọng. Cụ bán cá, những loại cá kỳ dị nhưng không ngon của vùng Địa Trung Hải. Dân làng chỉ sống bằng những con cá đó với ít mì ống. Tôi đã biết làng đó thời còn thái bình, dân chúng sung sướng vô tư lự. Bây giờ họ ở trong một công trường nhỏ xíu, nhà cửa đã sập hết vì bom đạn, chỉ còn đống gạch vụn, không nghe thấy tiếng cười, tiếng hát như ngày xưa. Không khí phảng phất mùi hoa trúc đào nên cảnh tượng thê thảm như trong nghĩa địa, làm cho tôi đau lòng. Nơi đó trước kia tôi thích biết bao, bây giờ chết rồi; cảnh tan hoang trần trụi đó thật xót xa, tuyệt vọng.

Hầu hết các thanh niên đã bỏ xứ đi nơi khác. Nhưng các người già và trẻ con thì còn ở lại; họ lầm lũi đi như bóng ma trong cảnh đổ nát; có mấy chiếc thuyền và mấy chiếc lưới vá víu bậy bạ, họ cực khổ lắm mới kiếm được miếng ăn, chỉ vừa đủ cho khỏi chết.

Trong số những người ở lại có cụ Maria. Đôi khi cụ dắt theo một em bé gái mười tuổi, chắc là cháu của cụ. Gầy ốm, rách rưới, em đi chân không, lon ton bên cạnh cụ, vừa đi vừa rao : « Cá đây, cá tươi đây! » như cố làm cho người ta tin rằng cá mới ở dưới nước lên. Tôi nhận xét hoàn cảnh hai bà cháu mà không khỏi buồn rầu, lo ngại cho họ : họ có vẽ cố bám lấy một dĩ vãng đã qua, qua hẳn rồi! Quả đúng là một ảo vọng!

Một buổi sáng, khi họ đi qua công trường tan hoang, tôi hỏi chuyện họ. Trong chiến tranh họ đã thoát chết khi bị dội bom và bây giờ họ sống trong cái hầm ở hẻm Eustacia, khu nghèo nhất của làng không bị tàn phá.

Vì trong lòng xót xa, đâm ra bi quan, tôi hỏi cụ :
Vì sao cụ không đi nơi khác? Ở đây còn có tương lai gì nữa đâu? … Tàn phá hết rồi … Hết hẳn rồi.
Cụ làm thinh một chút rồi chậm chạp lắc đầu :
Đây là quê hương của mình. Với lại đâu có hết hẳn.
Rồi hai bà cháu bước đi, tôi có cảm tưởng như họ vui vẻ nháy mắt với nhau, ra vẻ hóm hỉnh, biểu đồng tình.

Thấy vậy tôi sinh ra tò mò. Mấy ngày sau, tôi bất giác dò xét xem họ đi đâu, không cố ý rình mò. Buổi sáng tôi thấy họ đi làm những công việc hàng ngày như mọi người, nhưng buổi chiều thì không thấy họ đâu hết. Mấy lần, sau bữa trưa, tôi đi qua hẻm Eustasia : căn phòng nhỏ của họ luôn luôn vắng tanh. Có thể rằng hai bà cháu đó không chất phác như tôi tưởng chăng? Tại sao buổi chiều nào họ cũng đi khỏi? Họ có làm gì ám muội không? Buôn lậu hoặc chợ đen?

Vì nghi ngờ như vậy, nên một buổi nọ, tôi bỏ hẳn giấc trưa trên bãi biển, lại hẻm Eustasia sớm hơn mọi lần. Tôi núp dưới một cái cổng, rình căn nhà của cụ. Tôi không phải đợi lâu. Khoảng một giờ trưa, hai bà cháu ở trong hầm bước ra, mỗi người đeo một cái giỏ không trên lưng; họ nắm tay nhau vui vẻ, hăng hái lên đường. Tôi đi theo rình họ, như một tên trộm.

Hai bà cháu lách qua đám nhà cửa đổ nát. Tới đầu làng, họ tiến vào một con đường mòn cháy nắng đưa xuống lòng sông cạn khô. Tôi đứng trên cao nhìn xuống bờ sông. Tôi ngạc nhiên làm sao, thấy nhiều người cuốc đất, xúc đất trong lòng sông lởm chởm những đá. Hai bà cháu đặt giỏ xuống, rồi bắt đầu làm việc. Mới đầu tôi tưởng họ tìm bảo vật vàng bạc gì đó, rồi tôi thấy đứa cháu gái xúc một giỏ cát, còn bà cụ lựa kỹ từng phiến đá trắng vuông vức bỏ vào giỏ. Khi giỏ đầy rồi, họ gùi lên lưng, chậm chạp leo con dốc dựng đứng để lên bờ.

Họ đi ngang sát chỗ tôi núp. Không biết họ có thấy tôi không. Nếu có thì họ cũng không để lộ cho tôi thấy. Đợi cho họ đi qua rồi, tôi mới theo dõi.
Con đường đưa tới chỗ cao nhất của làng, tới một cái đồi nhỏ bao quát cả miền chung quanh. Mấy lần đi chơi, tôi chưa bao giờ bước chân tới đó : đó là nơi duy nhất không bị tàn phá. Một nhóm người làng đang làm việc trong bụi cây keo. Họ nói nhỏ nhẹ với nhau, không có những cử chỉ huênh hoang, lặng lẽ trộn hồ, đục những phiến đá nhỏ nhắn, trắng đẹp rồi sắp vào nhau, chồng lên nhau thành những bức tường của một kiến trúc rộng lớn.

Mới đầu tôi chưng hửng. Rồi đột nhiên tôi đoán được mục đích của họ, họ tính xây cất cái gì. Tôi nghẹt thở. Những kẻ đó chỉ có một mái nhà đủ che mưa che nắng, còn bao nhiêu đã mất hết. Những ông bà già và trẻ con mà tôi tưởng chỉ là những bóng ma bất lực, hư ảo, vật vờ, đã quyết tâm làm một công tác tập thể đầu tiên là tự lực xây cất một giáo đường mới mẻ, lộng lẫy. Không phải là một nhà thờ nhỏ xấu xí tạp nhạp, mà là một chỗ thờ phụng quy mô, đẹp đẽ hơn tất cả những giáo đường cũ trong miền.

Cụ già và đứa cháu trút giỏ cát đá xuống, nghỉ một chút để thở rồi lại trở xuống lòng sông. Khi đi ngang qua sát tôi, mồ hôi nhễ nhại trên trán, cụ già ngó lén tôi : cặp mắt đen và nghiêm nghị của cụ có vẻ tươi cười dịu dàng mà bí mật, bề ngoài thì bình tĩnh mà bề trong ranh mãnh một cách hiền từ. Cụ có vẻ như bảo : « Sao? Có thực là tương lai của chúng tôi hết hẳn chưa? » Tất cả cuộc đời của cụ hiện rõ trong vẻ nhìn đó, từ dĩ vãng, hiện tại tới tương lai. Một cuộc đời can đảm, nhẫn nại, một lòng tin tưởng bền bĩ, không gì lay chuyển nổi, một ý chí cam nhận cái gì không tránh được, nhất là quyết tâm tin tưởng.

Tôi xấu hổ đứng trân ra đó, trong khi hai bà cháu đi khuất vào đường mòn. Nghĩ rằng mình đã để cho niềm thất vọng lôi cuốn, tôi thấy đau nhói tim như có mũi dao đâm vào đó. Ừ thì tan hoang, đổ nát đó, nhưng đã làm sao? Nếu những người già lụm khụm như vậy và những người trẻ măng như vậy mà còn lòng tin tưởng mãnh liệt như vậy thì thế giới vẫn còn có thể hy vọng được, hy vọng được ở tất cả.

Tôi đứng trên đồi một hồi lâu. Sau cùng khi xuống đồi, lòng đã bình tĩnh, phấn khởi thì ngôi sao hôm hiện lên, tuy còn lờ mờ nhưng đã lấp lánh trên nền trời vô biên và làng xóm chìm dần sau làn sương nhẹ từ biển bốc lên. Nhưng ở « cái nơi tâm lình còn bừng bừng đó » tôi thấy tất cả ngọn lửa chiếu sáng rực rỡ.

Ngẫm:

Chuỗi ngọc lam. Fulton Oursler

Chuỗi ngọc lam. Fulton Oursler
Nguyễn Hiến Lê dịch thuật

Ngày cô bé Joan Grace đẩy cửa bước vào tiệm của Pierre Richard thì Pierre là con người cô độc nhất thành phố. Có lẽ hồi ấy các bạn đã được nghe phong phanh câu chuyện đó. Nhưng báo chí không nêu tên mà cũng không kể chi tiết nên hôm nay tôi xin thuật lại tường tận.

Pierre đã được ông nội để lại cho một cửa tiệm bán đồ cổ. Trong cái tủ kính nhỏ xíu anh chất đủ các thứ đồ kỳ cục : vòng, mề đay đeo vào dây chuyền có từ thế kỷ trước, nhẫn vàng, hộp bạc, ngọc thạch hoặc ngà chạm trổ, tượng nhỏ bằng sứ.
Buổi chiều, mùa đông hôm đó, một em gái đứng áp trán vào tủ kính, trố mắt ngó kỹ từng vật cổ lỗ đó như muốn kiếm một vật gì. Bỗng em ngững đầu lên, vẻ khoan khoái rồi đẩy cửa bước vào tiệm.

Tiệm tối tăm mà còn bừa bãi hơn mặt tiền nữa. Có những ngăn tủ muốn sập vì chất quá nặng : hộp đựng tư trang, súng lục cũ không còn dùng được nữa, đồng hồ chuông đèn; còn trên sàn thì chất đống nào là giá để củi trong lò sưởi, đờn măng-đô-lin và những đồ cũ kỹ khó mà phân loại được.

Pierre ngồi ở sau quầy. Mặc dầu mới ngoài ba mươi mà tóc của anh đã hoa râm. Anh ngó cô bé.
Em hỏi :
- Thưa ông, con có thể coi chuỗi ngọc lam bày ở tủ kính không ạ?
Pierre kéo tấm màn, lấy chuỗi ngọc ra đưa cho cô bé xem. Những viên ngọc lam chiếu rực rỡ trong bàn tay xanh xao của anh. Em đỡ lấy, thốt lên lời khen :
- Đẹp quá! Xin ông gói lại thành một gói đẹp cho con.
Oierre lạnh lùng ngó em :
- Có ai sai em đi mua hả?
Thưa không. Con mua cho chị Hai con. Chị đã nuôi nấng con từ khi má mất. Đây là lễ Noel đầu tiên chị em con được ở gần nhau. Con muốn tặng chị một món quà đẹp.
Pierre nghi ngờ hỏi :
- Em có bao nhiêu tiền?
Em mở khăn tay ra, đổ lên bàn một nắm bạc xu, bảo :
- Con đã đập con heo của con ra đấy.

Pierre Richard ngó em, vẻ trầm tư. Rồi anh ý tứ cầm chuỗi ngọc lên, sợ em trông thấy giá tiền. Nói thẳng cách nào cho em biết được? Cặp mắt xanh đầy tin tưởng của em gợi cho anh nhớ lại vết thương lòng thời trước.
Quay lưng lại em, anh bảo :
- Em đợi một chút nhé.
Rồi vừa lúi húi làm một việc gì đó, anh vừa quay lại hỏi:
- Em tên gì?
- Thưa, Joan Grace.
Khi quay lại thì trong tay anh đã cầm một gói nhỏ bao bằng giấy lụa đỏ và cột bằng một băng lụa màu xanh lá cây. Anh đưa cho em bé và bảo:
- Này, coi chừng em đừng đánh rơi nhé.

Em Joan mỉm cười rạng rỡ, chạy vụt về nhà. Anh nhìn theo, một nỗi buồn mênh mông dâng lên trong lòng. Em nhỏ đó và chuỗi ngọc lam khêu gợi lại một vết thương lòng không bao giờ lành hẳn của anh. Tóc em vàng như lúa chín, mắt em xanh như nước biển; mới mấy năm trước, anh đã yêu một thiếu nữ cũng có mớ tóc đó, cặp mắt đó. Chuỗi ngọc đã tính để tặng nàng.

Nhưng một chiếc cam nhông trượt bánh trên con đường trơn trợt một đêm mưa đã làm tiêu tan ước mơ.

Từ đó anh sống cô độc, ôn lại hoài nỗi khổ tâm. Anh ân cần lễ độ tiếp khách, nhưng ngoài công việc ra, anh thấy đời trống rỗng vô nghiõa một cách khủng khiếp. Lầm lì, không giao thiệp với ai, anh rán quên mà không quên được, nỗi thất vọng như sương mù cứ mỗi ngày mỗi dày đặc.

Cặp mắt xanh của em Joan Grace gợi cho anh hình ảnh người yêu. Vào dịp lễ này, khách hàng tới đông, ai cũng bộc lộ niềm vui làm cho anh càng đau lòng. Khách qua đường bước vào tiệm, chuyện trò, sờ mó các món đồ, trả giá lăng xăng. Đêm Noel đã khuya rồi, khi người khách cuối cùng bước ra, Pierre Richard thở phào nhẹ nhàng. Thôi thế là qua được năm nay. Nhưng anh đã lầm.

Cửa thình lình mở ra, một thiếu nữ xông vào. Anh thấy nhói ở tim: thiếu nữ có vẻ mặt quen quen nhưng anh không nhớ rõ đã gặp ở đâu, hồi nào. Tóc cô vàng hoe, mắt xanh thăm thẳm. Cô im lặng lấy trong túi xách ra một gói nhỏ bao vội vàng một thứ giấy lụa đỏ, lại có cả cái băng lụa màu xanh lá cây đã mở ra rồi. Và những viên ngọc lam chiếu rực rỡ trên bàn:
- Chiếc chuỗi ngọc lam này có phải của tiệm ông không?
Pierre ngước mắt lên nhìn cô, nhẹ nhàng trả lời:
- Phải.
- Phải ngọc thật không?
- Nhất định rồi. Không phải thứ ngọc quý nhất nhưng ngọc thật đó.
- Ông có nhớ đã bán cho ai không?
- Bán cho một cô bé. Tên em là Joan. Em mua để tặng quà Noel cho chị Hai của em.
- Giá bao nhiêu?
Pierre nghiêm mặt đáp:
- Tôi không khi nào nói giá tiền khách hàng đã trả cho tôi.
- Em Joan chỉ có ít đồng tiền tiêu vặt làm sao em có đủ tiền mua chuỗi ngọc này?
Trong lúc đó, Pierre vuốt kỹ lại tờ giấy lụa, gói lại chuỗi ngọc. Anh bảo :
- Em đã trả đắt hơn hết thảy các người khác. Có bao nhiêu tiền em đưa tôi hết.

Hai người làm thinh. Cửa hàng bỗng tĩnh mịch lạ thường. Tiếng chuông từ một giáo đường ở gần đó bắt đầu đổ, văng vẳng đưa lại. Cái gói nhỏ đặt trên bàn, vẻ thắc mắc dò hỏi trong cặp mắt thiếu nữ và cảm giác hồi sinh kỳ dị dồn dập dâng lên trong lòng Pierre, tất cả những cái đó đều là do tình yêu của một em nhỏ.
- Nhưng sao ông lại làm như vậy?
Pierre vừa đưa gói nhỏ đó cho cô vừa trả lời :
- Hôm nay là ngày Noel. Tôi bất hạnh không có ai để tặng quà. Cô cho phép tôi đưa cô về nhà và chúc cô một lễ Noel vui vẻ với gia đình nhé!

Thế là trong tiếng chuông đổ hồi, giữa một đám đông vui vẻ, Pierre Richard và một thiếu nữ mà anh chưa biết tên, cùng nhau bước qua một ngày mới đem lại nguồn hy vọng tràn trề trong lòng mọi người.

Chỉ phải tiến từng cây số một thôi . Eric Sevareid

Hồi đó tôi mới mười bảy tuổi... bị một cơn sợ ghê gớm. Anh bạn học Walter Port và tôi cùng nhau xông vào một cuộc mạo hiểm kỳ thú nhưng cũng thực là ngu xuẩn, chúng tôi muốn tỏ rằng có thể chèo một chiếc xuồng nhẹ từ Minneapolis tới chi điếm bán da lông của hãng York trên vịnh Hudson. Chúng tôi đã chèo tới được Norway House ở phía cực bắc hồ Winnipeg. Từ đó còn phải chèo một quãng dài 25 cây số nữa qua một miền hoang vu chỉ gặp được mỗi thị trấn nhỏ ở dọc đường. Những bản đồ chúng tôi mang theo đều sơ sài quá mà hôm đó là ngày mùng một tháng chín!... Sông và hồ sắp đóng băng.

Nhân viên cảnh sát Canada do dự không muốn cho chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình và sau cùng miễn cưỡng cho phép chúng tôi. Cả đêm trước ngày khởi hành chúng tôi thao thức, nghĩ tới những nỗi gian nan dọc đường, nửa sợ mà nửa tự ái. Nếu bị chìm xuồng hoặc bị mắc kẹt vì nước đóng băng thì không hy vọng gì thoát chết được. Mà nếu bỏ nửa chừng, thì còn mặt mũi nào trông thấy gia đình và bạn bè nữa?

Tòa soạn nhật báo ở Minneapolis tường thuật từng giai đoạn cuộc hành trình của chúng tôi, chủ ý để nêu tên tôi trong bước đầu vào nghề viết văn, sẽ khinh bỉ chúng tôi ra sao? Và chính Walter và tôi sẽ có thái độ ra sao khi làm cho mọi người thất vọng như vậy?

Lúc khởi hành, một thợ săn Đan Mạch lực lưỡng lại chúc chúng tôi "thượng lộ bình an". ông ta siết chặt tay chúng tôi, bảo:

- Các cậu chỉ nên nghĩ tới cây số trước mặt thôi, đừng bận tâm tới những cây số ở xa hơn nữa nhé. Như vậy thì sẽ tới đích được.

Tôi chưa bao giờ nhận được một lời khuyên chí lý như lời khuyên dó.

Biết bao lần, ban đêm, tôi trằn trọc, lăn qua lộn lại trong cái "sắc" lạnh buốt, lo lắng về quãng đường dài dằng đặc phải vượt qua, mà nhớ lại lời khuyên của người thợ săn Đan Mạch đó ! Trong bao nhiêu ngày chèo chống lặn lội, khiêng xuồng và đồ đạc, chúng tôi đã có nhiều dịp ngẫm nghĩ về lời khuyên đó. Tinh thần chúng tôi thấm nhuần lời khuyên đó. Chúng tôi chỉ nghĩ tới cái thác ở phía trước, tới chỗ cắm trại ở phía trước, tới cây số ở phía trước thôi.

Sau cùng, một đêm tối như mực, chúng tôi đã vượt được cây số cuối cùng. Bẩn thỉu, mặt mày hốc hác, quần áo rách tươm, lương thực gần hết nhẵn, chiếc xuồng hư nát tệ hại, chúng tôi lết lên bờ, trong luồng ánh sáng vàng vọt từ chi điếm hãng York chiếu ra.

Từ hồi đó, tôi có nhiều dịp nhận thấy lời khuyên của người thợ săn Đan Mạch đó rất đúng: chỉ phải tiến một cây số thôi.

Chẳng hạn, mười ba năm sau, trong Thế chiến thứ nhì, tôi với vài anh bạn ngồi trong chiếc phi cơ chuyên chở của nhà binh. Chúng tôi đương bay trên khu rừng gần biên giới Ấn Độ - Miến Điện thì máy hư chúng tôi phải nhảy dù xuống. Nếu có một đoàn cấp cứu nào được phái đi thì cũng mất mấy tuần mới tới được chỗ chúng tôi hạ xuống. Vì vậy chúng tôi không thể đợi được, đành cực khổ len lỏi lần lần về phía biên giới ấn, vượt quãng đường hai trăm hai mươi lăm cây số, qua một miền núi non hiểm trở, dưới ánh nắng cháy da và những trận mưa tầm tã.

Chúng tôi vừa mới khởi hành thì chẳng may chân tôi bị thương vì chiếc đinh trong giày; buổi tối đó, hai bàn chân tôi phồng lên, rớm máu. Khập khiễng như vậy thì làm sao vượt được trên hai trăm cây số! Mà các bạn tôi có anh tình trạng thê thảm hơn tôi nữa, làm sao đi được cho tới hết đường, nhưng ít gì cũng có thể khập khiễng lết tới đỉnh đồi phía trước, tới làng xóm phía trước tìm một căn nhà xin tá túc, và chúng tôi chỉ mong được bấy nhiêu thôi.

Óc tưởng tượng là con dao hai lưỡi: nhờ nó mà có những công trình lớn lao, nhưng cũng vì nó mà sự can đảm của ta nhụt đi, không thực hiện được những công trình đó. Tôi vốn nhút nhát và đôi khi tự biện hộ cho tôi rằng tại tôi có óc tưởng tượng mạnh, dễ thấy những nguy hiểm sẽ xảy ra, nên không được bạo gan. Cho nên đã nhiều lần rồi, khi gặp những nỗi gian nan về thể chất hoặc những đau khổ về tinh thần tôi phải nhớ lại quy tắc: "cây số ở trước mặt " rất hữu ích đó. Ngày tôi bỏ một chỗ làm được trả lương đều đều để bắt dầu viết một cuốn sách dài hai trăm năm chục ngàn tiếng, tôi rán không để cho công trình lớn lao đó thôi miên tôi, không vậy chắc chắn tôi đã phải bỏ dở một tác phẩm làm cho tôi vinh hạnh nhất trong nghề cầm bút của tôi. Tôi rán nghĩ tới đoạn sau thôi, không nghĩ tới trang sau nữa, lại càng không nghĩ tới chương sau nữa. Thành thử trong sáu tháng tôi chỉ viết từng đoạn một. Và tôi phải thú thực rằng, tác phẩm đó "tự nó thành hình".

Mới mấy chục năm trước đây, tôi nhận mỗi ngày phát thanh một bài cho một đài nọ. Tới hôm nay những bài tôi đã phát thanh đạt tới con số hai ngàn. Nếu hồi đầu người ta bảo tôi khởi ký hợp đồng cung cấp cho người ta hai ngàn bài thì chắc chắn là tôi đã thụt lùi, không dám nhận công việc lớn lao đó. Nhưng người ta chỉ đòi tôi mỗi ngày một bài thôi và tôi cũng chỉ soạn mỗi ngày một bài thôi.

Đức kiên nhẫn có thể thay đức can đảm được và theo tôi không có hình thức kiên nhẫn nào bằng hình thức mà người thợ săn Đan Mạch đã khuyên chúng tôi nhớ kỹ rằng chỉ phải tiến từng cây số một thôi.

Ngẫm:

Mỗi ngày một ít

TTO - Đó là một ngày mưa và đầy gió, tôi không hề muốn lái xe từ bãi biển đến ngọn núi lạnh lẽo ở hồ Arrowhead nơi mà con gái tôi - Carolyn ở. Trước đó một tuần, Carolyn đã gọi điện mời tôi đến xem những cây thủy tiên hoa vàng mà một người phụ nữ đã trồng trên những đỉnh núi. Vì thế, giờ đây, tôi đang miễn cưỡng thực hiện chuyến đi hai giờ đồng hồ.

Đến khi tôi thấy sương mù đã dày đặc trên con đường đầy gió thì đã quá xa để quay trở lại, thế là tôi nhích chiếc xe đi từng bước đến đầu đường cao tốc đến nhà con gái tôi. Sau khi lái tiếp mười phút, tôi cũng đến nơi. Tôi và Carolyn bắt đầu lên núi.

Chúng tôi trở lại con đường núi, trông sương mù như một tấm màn dày. Không có gì đáng để làm điều này, tôi nghĩ. Nhưng đã quá muộn để quay lại. Chúng tôi đi xuống một con đường hẹp vào nơi đỗ xe cạnh một nhà thờ đá nhỏ bé. Sương mù tan dần và những tia nắng mặt trời ẩm ướt, xám xịt đang cố gắng xuyên thủng tấm màn sương đó.
Carolyn ra khỏi xe và tôi miễn cưỡng theo nó. Con đường mòn dẫn chúng tôi đến một nơi đầy những ngọn thông. Màu xanh đen vĩnh cữu đó bao hàm chúng tôi và ngọn núi dốc phía bên phải.

Sự yên tĩnh hiền lành của nơi này dần dần làm tôi thoải mái. Ngay lúc đó, lúc đi vào một khúc quanh, tôi đã há hốc mồm ngạc nhiên. Từ đỉnh núi, trải dài xuống là các khe núi và thung lũng, giữa những hàng cây và bụi rậm, theo địa thế vùng là những dòng sông hoa thủy tiên vàng rực. Đủ loại sắc vàng, từ màu vàng nhợt nhạt của ngà voi đến vàng đậm của chanh hay vàng chói lọi nhất của cá hồi màu cam, đều đang rực rỡ như một tấm thảm trước mắt chúng tôi.

Dường như mặt trời khẽ nghiêng và rót vàng trên những dòng sông xuống sườn núi. Tại trung tâm của sắc màu hoang dã này là một thác nước đổ xuống màu xanh tía. Xuyên suốt khu vườn là những bậc thềm nhỏ trầm ngâm nằm trang nhã với những cụm tulip đỏ hồng. Và dường như sự phồn vinh của những sắc màu nơi đây là chưa đủ, trên ngọn những cây thủy tiên còn có những chú chim phương Tây đến vui đùa, chiếc ngực màu đỏ thẫm và cánh màu xanh ngọc của chúng như những trang sức châu báu lấp lánh.

Hàng loạt những câu hỏi xuất hiện trong đầu tôi. Ai đã tạo nên khu vườn đẹp tuyệt vời đến như thế? Tại sao? Tại sao lại ở đây, tại nơi không có lối đi vào thế này? Bằng cách nào?

Khi đến ngôi nhà ở giữa khu vườn đó, chúng tôi thấy một tấm bảng: "Trả lời những câu hỏi mà tôi biết bạn đang thắc mắc".

Câu trả lời thứ nhất là một người phụ nữ bằng hai tay, hai chân và bộ óc nhỏ bé. Câu thứ hai là một lần một ít. Thứ ba là bắt đầu năm 1985.

Trên đường trở về tôi im lặng. Tôi đang dao động vì những gì tôi nhìn thấy. "Bà ta đã thay đổi thế giới", cuối cùng tôi lên tiếng. "Một hạt giống cho thời gian. Nghĩ xem. Bà ấy đã bắt đầu cách nay gần 40 năm. Và thế giới luôn khác biệt và tốt hơn vì bà ta đã làm một điều thật nhỏ với lòng kiên định của mình".

Sự kinh ngạc vẫn chưa hết trong tôi: "Tưởng tượng xem – nếu mẹ có một ước vọng và làm việc vì nó, chỉ một ít mỗi ngày thôi trong suốt những năm qua, thì hôm nay mẹ được gì nào?". Carolyn nghiêng nhìn sang tôi mỉm cười. "Bắt đầu ngày mai đi", nó bảo. "Tốt hơn hết, hãy bắt đầu hôm nay".

QUỐC DŨNG (Theo Chicken Soup)

Ngẫm:

Cha tự hào về con

TTO - Cha tôi là người con duy nhất của một dòng họ người Đức nhập cư ở Mỹ. Điều đó có nghĩa là gia đình chúng tôi có một nền giáo dục nghiêm khắc.

Cha lập gia đình năm 20 tuổi và tôi là đứa lớn nhất trong năm đứa con. Cha tôi hy vọng những đứa con của mình sẽ đạt kết quả xuất sắc tại trường học. Vì là con trưởng, tôi càng phải học hành chăm chỉ hơn để thỏa ước nguyện của cha.

Tôi nhớ đã cùng làm việc với cha được vài lần. Mỗi sớm mùa xuân, khi mặt đất vẫn còn hơi lạnh và ẩm ướt, cha lại cẩn thận đánh dấu từng luống đất riêng rẽ trong vườn nhà. Tôi và em trai mình đi theo cha chỉ để gieo những hạt đậu xuống đất. Tôi cũng biết cách trồng những cây con sao cho thật gọn gàng, thật đẹp khi đi cùng cha. Tôi cũng được cha cho đi câu cá trên chiếc thuyền gỗ cũ kỹ của gia đình.

Những lúc như thế, tôi chỉ muốn được ôm cha và nói “Con thương cha nhiều lắm!”, nhưng điều đó không bao giờ xảy ra. Liệu cha có chấp nhận cho tôi làm như thế hay không? Thật khó để tìm ra câu trả lời.

Rồi tôi lớn lên, tốt nghiệp đại học, lập gia đình. Thật không may mắn khi tôi và chồng phải sống cách xa gia đình đến hàng trăm dặm. Nhiều lúc hai chúng tôi còn phải đi công tác nước ngoài nữa. Mẹ viết thư cho tôi hàng tuần, kể những gì đã xảy ra ở nông trại, những gì cha tôi làm và cả chuyện của các em tôi. Còn cha thì không bao giờ viết cho tôi dòng nào cả. Khi tôi quay trở về nông trại của gia đình, những lần viếng thăm bố mẹ trở nên nhiều hơn, nhưng cha và tôi cũng không bao giờ gần gũi, thân thiện như những gia đình khác.

Năm 1986, đó là thời điểm mà chúng tôi phải nói lời chia tay với những người khác. Chồng tôi, hai con và tôi, đứng cùng cha mẹ tôi, bắt tay chào mọi người. Chồng tôi cầu mong cho mọi chuyện xảy ra tốt đẹp khi chúng tôi lên đường. Sau đó, tôi ôm cha và nói: “Con yêu cha”. Thật là bất ngờ khi tôi nghe cha nói “Cha cũng yêu con”, tôi để ý thấy đôi mắt cha ngấn lệ. Ước gì chúng tôi đã luôn ở bên nhau trong suốt những năm qua. Cha mẹ tôi đã bước qua tuổi 60, tôi cũng mong rằng mình sẽ có thêm nhiều thời gian ở bên họ trong tương lai. Chúng tôi sẽ trở về sau bốn năm làm việc ở Úc.

Hai năm rưỡi sau, một cú điện thoại gọi đến từ gia đình tôi. Đó là một buổi trưa thứ tư chủ nhật, cha đi trên một chiếc xe trượt tuyết để đi thăm những người hàng xóm và bị ngã trên đường về. Em rể tôi tìm thấy cha nằm trên tuyết, chết vì lên cơn đau tim đột ngột. Bạn bè thúc giục tôi quay trở về Minesota để lo cho đám tang cha.

Tại tang lễ của cha, tôi nghe mọi người kể những câu chuyện, những điều tuyệt vời về cha – một người chính trực được những người khác nể trọng và tin cậy. Những câu chuyện mà họ kể đều mới mẻ với tôi, dường như họ biết rất nhiều điều về cha tôi. Lúc ấy, tôi chỉ ước thầm sao cho mình có thể cũng hiểu nhiều về cha như thế, và mối quan hệ giữa chúng tôi đã có thể tiến triển tốt hơn.

Ba năm sau ngày cha mất, mẹ tôi cũng ra đi. Sau lễ tang của mẹ, cả năm đứa chúng tôi quay trở lại nông trại và cùng phân chia những gì mà bố mẹ đã để lại. Trong lúc dọn dẹp trên tầng thượng, tôi vấp phải một chiếc hộp. Đó là chiếc hộp chứa đầy kỷ niệm ấu thơ của tôi. Chứa đựng bên trong nó là những bức vẽ đầu tiên của tôi, những lá thư và cả những tấm ảnh cũ kỹ nữa.

Ở ngay chính giữa chiếc hộp, tôi phát hiện ra có hai lá thư mà cha đã viết từ nhiều năm trước khi tôi vừa hoàn thành chương trình đại học – đó là những bức thư tay duy nhất mà cha viết cho tôi. Làm thế nào tôi có thể quên rằng chúng tồn tại ở đấy nhỉ? Tôi cẩn thận mở những mảnh giấy đã vàng úa vì thời gian ra đọc.

Lá thư đầu tiên là những việc xảy ra ở nông trại. Lá thư thứ hai nói về cảm xúc của cha khi tôi được bầu vào hội sinh viên ưu tú của trường đại học. Khi tôi đọc dòng đầu tiên của bức thư thứ hai, mắt tôi nhòe lệ vì cha đã viết rằng “Cha rất tự hào khi có một cô con gái như con!”…

QUỐC DŨNG (Theo Heartwarme)

Ngẫm:

Tự tin sẽ dẫn ta đến thành công

TTO - Les Brown và người em sinh đôi được Mamie Brown, một nhân viên phụ bếp và hầu gái nuôi dưỡng. Họ sinh ra trong một gia đình nghèo khó.

Lớn lên, Les trở thành nhân viên vệ sinh của thành phố tại Miami Beach. Nhưng anh ước mơ trở thành một DJ. Anh đã làm một đài phát thanh tưởng tượng trong căn phòng nhỏ bé của mình với cái nền nhà bằng nhựa dẻo rách nát. Chiếc lược chải tóc được dùng làm micro khi anh tập bình luận, giới thiệu băng đĩa với những thính giả vô hình.

Một ngày nọ Les mạnh dạn tiến thẳng đến đài phát thanh của địa phương trong bữa ăn trưa khi đang xén cỏ trong thành phố. Anh vào phòng của giám đốc đài phát thanh và nói rằng anh muốn trở thành một DJ.

Đôi mắt của ông giám đốc nhìn vào chàng trai trẻ lôi thôi, nhếch nhác với chiếc mũ rơm và chất vấn: “Anh có kiến thức cơ bản nào về phát thanh không?”. Les trả lời: “Thưa ông, không!”. “Được rồi, anh chàng ạ, tôi nghĩ rằng bây giờ chỗ tôi không có việc cho anh đâu”.

Les lịch sự cảm ơn rồi bước ra ngoài. Ngài giám đốc đài phát thanh đã đánh giá quá thấp quyết tâm của Les Brown đối với mục đích của mình. Bạn biết không, Les có một mục tiêu xa hơn là đơn thuần trở thành một DJ. Anh muốn mua một ngôi nhà tốt hơn cho mẹ nuôi của mình, người mà anh yêu vô cùng. Công việc DJ chỉ là một bước trong kế hoạch của anh thôi.

Mamie Brown từng dạy Les theo đuổi những ước mơ của anh, vì thế anh cảm thấy chắc rằng anh sẽ được nhận vào làm tại đài phát thanh chứ không phải như lời ông giám đốc đã nói.

Và thế là Les quay trở lại đài phát thanh mỗi ngày trong suốt một tuần, hỏi rằng đã có việc làm nào chưa. Cuối cùng ông giám đốc đài phát thanh nhận anh vào làm một chân sai vặt không trả công. Đầu tiên, anh mang cà phê hay bữa trưa và chiều cho các DJ là những người không thể rời khỏi dài. Dần sự nhiệt tình của anh đối với công việc của họ khiến cho các DJ tin cậy và cho anh ngồi chung những chiếc Cadilacs của họ đến thăm những người nổi tiếng như Temptation, Diana Ross và Supremes.

Les làm bất cứ việc gì mà người ta yêu cầu anh ta, và nhiều hơn nữa. Khi thường đến chơi với các DJ, anh đã tự học cách di chuyển tay trên bàn điều khiển. Anh ở trong phòng điều khiển và miệt mài tập luyện những gì biết được cho đến khi được yêu cầu ra ngoài. Sau đó, khi trở về phòng ngủ lúc đêm xuống, anh tập luyện và chuẩn bị cho cơ hội mà anh biết là sẽ tự xuất hiện.

Vào một chiều thứ bảy khi Les đang ở đài phát thanh, một DJ tên Rock đã uống rượu khi đang phát sóng. Les là người duy nhất trong đài, và anh biết rằng Rock đang tự đưa mình vào rắc rối. Les nán lại thật gần đó. Anh đi qua đi lại trước cửa sổ của phòng Rock. Trong khi lảng vảng như vậy, anh nói với mình: “Uống đi, Rock, uống nữa đi”.

Les đói bụng, và anh cũng sẵn sàng. Anh sẽ chạy ra phố mua thêm rượu nếu Rock yêu cầu. Khi chuông điện thoại reo vang, Les phóng đến nó. Đó là giám đốc đài phát thanh, như anh đã đoán trước. “Les,tôi là Klein đây”. “Vâng, tôi biết”, Les đáp. “Les này, tôi không nghĩ rằng Rock có thể hoàn tất chương trình của cậu ấy”. “Thưa ông, tôi biết ạ”. “Anh có thể gọi một trong các DJ khác đến và làm nốt không?”. “Vâng, thưa ngài. Tôi sẽ gọi”.

Nhưng khi Les cầm điện thoại, anh tự bảo: "Bây giờ, ông ta phải nghĩ rằng mình điên đây"

Les gọi điện thoại đi, nhưng nó không đi đến bất kỳ DJ khác nào. Anh gọi cho mẹ anh trước, sau đó là bạn gái anh: "Mọi người hãy ra cổng vòm trước và mở đài lên đi vì tôi sẽ được phát trên đài đấy”, anh nói.

Anh chờ khoảng 15 phút trước khi gọi cho giám đốc đài phát thanh. "Thưa ông Klein, tôi không thể tìm được người nào khác", Les bảo. Khi đó, ông Klein hỏi: "Chàng trai ạ, anh có biết điều khiển không?". “Thưa ông, biết ạ”, Les trả lời.

Les lao vào phòng, nhẹ nhàng chuyển Rock sang một bên ngồi vào mâm xoay đĩa hát. Anh đã sẵn sàng. Và anh đang đói. Anh bật nhẹ công tắc trên micro và nói: "Hãy nhìn đây! Đây là tôi, Les Brown, ba chữ P-Les Brown, Platter Playing Poppa của các bạn. Trước tôi không có ai và sau tôi không có ai cả. Do đó, tôi sẽ là một và chỉ một. Trẻ tuổi, độc thân và thích sự pha trộn. Thành thật, có thiện ý, chất lượng bảo đảm sẽ mang đến cho các bạn sự hài lòng và nhiều hành động khác. Hãy nhìn xem, các bạn, tôi là người đáng mến của các bạn đây".

Bởi vì đã chuẩn bị từ trước, Les đã thành công. Anh đã gây ấn tượng mạnh với khán giả và tổng giám đốc của mình. Sau buổi khởi đầu tốt đẹp đó, Les đã tiếp tục công việc thành công trên đài phát thanh, chính trị, diễn thuyết với công chúng và truyền hình.

QUỐC DŨNG (Theo Chicken Soup)

Ngẫm:

Bình yên trong cơn bão

Một ngày nọ, hai vợ chồng tôi cùng nhau đi tham quan thác Niagara. Trong khi bước dạo trong khu vực công viên gần thác, tôi dừng lại và nhìn chăm chú vào dòng nước đang đổ xuống thác.

Cách khoảng 100m về phía bên phải, mỗi phút có hàng triệu lít nước đổ ầm ầm xuống, tạo nên dòng thác và bào mòn những tảng đá phía bên dưới. Xa hơn một chút về phía tay trái, những ngọn sóng bạc đầu chảy cuồn cuộn phía bên dười cầu với tốc độ khoảng 50 dặm một giờ hướng về đỉnh thác.

Nếu có ai đó hoặc vật gì đó chẳng may rơi vào dòng nước đó, chắc chắn sẽ bị cuốn phăng về phía thác Niagara trước khi có cơ hội trốn thóat. Tôi cảm thấy thật sự bị sức mạnh của dòng thác này quyến rũ. Nhưng chợt có điều gì đó đập vào mắt tôi.
Ngay phía dưới kia, tôi thấy một cái hồ nước nhỏ, trong veo được tạo nên bởi một cái cây gãy đổ xuống và được che chắn bởi hằng hà sa số những hòn đá lớn có, nhỏ có xung quanh. Và trong chiếc hồ nhỏ đó, hai chú vịt trời đang tung tăng bơi lội, bất chấp những hỗn lọan đang xảy ra xung quanh đấy.

Dường như chẳng quan tâm đến những hiểm nguy đang rình rập, những chú vịt này chẳng hề quan tâm và cứ làm việc của chúng, bơi lội và kiếm ăn từ dòng nước ấy.
Rồi đột nhiên chúng vỗ cánh bay đi, nhưng sự hiện diện lúc nãy của chúng khiến tôi thật sự chú ý và để lại nhiều điều trong tâm trí tôi. Khi cơn bão của cuộc đời đang vây lấy cuộc sống vốn dĩ yên bình và xen ngang qua đời ta, hãy luôn biết giữ bình tĩnh, để cho tâm hồn thư thái.

Hãy nghĩ mọi việc theo một hướng tích cực hơn là để cho nỗi sợ hãi, sự hiểm nguy bao lấy ta. Hãy biết đưa tay để người khác giúp bạn. Hãy giữ cho mình bình yên trong cơn bão ấy, hoặc nếu được, hãy làm dịu bão giông của cuộc đời mình.

QUỐC DŨNG (Theo Inspiretoday)

Ngẫm:

Trang này cha giành cho con

Mong con khôn lớn học nên thành tài.

Followers